SpStinet - vwpChiTiet

 

Giá trị dinh dưỡng của thóc và gạo lật dùng trong chăn nuôi lợn

Đề tài do các tác giả Trần Quốc Việt, Lê Văn Huyên, Đào Thị Phương,… (Viện Chăn nuôi) thực hiện nhằm nghiên cứu  tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước, giảm áp lực nhập khẩu và xây dựng cơ sở dữ liệu về thành phần hóa học, giá trị dinh dưỡng của thóc và gạo lật làm thức ăn cho lợn.

Các tác giả tiến hành thí nghiệm trên 6 lợn đực thiến có khối lượng trung bình 40 kg, nuôi trên các cũi tiêu hóa, thiết kế theo phương pháp ô vuông Lating kép, với 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn 12 ngày để xác định các giá trị năng lượng tiêu hóa (DE), năng lượng trao đổi (ME) của thóc và gạo lật. Các nguyên liệu thức ăn chính dùng trong thí nghiệm gồm ngô Sơn La, thóc và gạo lật của giống lúa IR50404 được phân tích thành phần hóa học và hàm lượng các axit amin.

Kết quả cho thấy, một số thành phần dinh dưỡng cơ bản của gạo lật giống lúa IR50404 như hàm lượng protein thô, một số axit amin thiết yếu (histidin, threonin, methionin, phenylalanin) tương tự ngô Sơn La nhưng hàm lượng của những thành phần này ở thóc giống lúa IR50404 thấp hơn đáng kể. Tuy nhiên, thóc giống IR50404 có hàm lượng xơ thô, NDF (chất xơ trung tính) và khoáng tổng số cao hơn đáng kể so với ngô và gạo lật. Giá trị DE và ME của gạo lật giống lúa IR50404 được thử nghiệm trên lợn đang sinh trưởng lần lượt là 3866 và 3767 kcal/kg VCK (vật chất khô), tương đương ngô (3882 và 3779 kcal/kg VCK). Giá trị DE và ME của thóc giống IR50404 được thử nghiệm trên lợn đang sinh trưởng lần lượt là 3353 và 3216 kcal/kg VCK, thấp hơn so với ngô và gạo lật từ 13%-15%.
LV (nguồn: TC Nông nghiệp và PTNT, tháng 1/2015)

Các tin khác:

  • 10 mẫu tin
  • 50 mẫu tin
  • 100 mẫu tin
  • Tất cả