SpStinet - vwpChiTiet

 

Nghiên cứu kết quả điều trị ung thư cổ tử cung giai đoạn figo IB-II bằng phương pháp phẫu thuật kết hợp với xạ trị

Đề tài do 2 tác giả Nguyễn Văn Tuyên (Bệnh viện K) và Nguyễn Văn Xuyên (Học viện Quân y) thực hiện nhằm đánh giá kết quả điều trị ung thư cổ tử cung (UTCTC) giai đoạn FIGO IB-II bằng phương pháp phẫu thuật kết hợp xạ trị qua đánh giá tỷ lệ tái phát, di căn, biến chứng và tỷ lệ sống thêm của bệnh nhân qua theo dõi 5 năm sau điều trị.

UTCTC giai đoạn FIGO IB-II được coi là giai đoạn tiến triển tại vùng, hiếm khi di căn xa vậy nên nguyên tắc điều trị UTCTC giai đoạn này là điều trị tại vùng với 3 yếu tố quan trọng gồm điều trị tại CTC và vùng tiếp giáp với âm đạo, điều trị vùng xung quanh CTC hay parametre, điều trị tại hạch vùng khung chậu và có thể hạch vùng chủ bụng. Điều trị UTCTC giai đoạn này có thể áp dụng các phương pháp phẫu thuật, xạ trị hoặc kết hợp phẫu thuật với xạ trị…
Nghiên cứu tiến hành với 331 bệnh nhân UTCTC giai đoạn FIGO IB-II điều trị tại bệnh viện K từ 1999-2002. Áp dụng phân giai đoạn bệnh của FIGO – 1995 gồm giai đoạn FIGO-IB (ung thư khu trú tại vùng CTC, chưa lan tới túi cùng), giai đoạn FIGO II (ung thư xâm lấn qua CTC nhưng chưa tới thành khung chậu hoặc 1/3 dưới âm đạo), FIGO IIA (chưa xâm lấn qua parametre), FIGO IIB (xâm lấn parametre), IIB proximal (IIBp- xâm lấn hạn chế 1/3 trong parametre).
Kết quả, tuổi trung bình bệnh nhân là 47,3 ± 8,5, độ tuổi hay gặp là từ 41-55 (61,6%), thấp nhất là 21, cao nhất là 73. Tỷ lệ bệnh nhân theo giai đoạn IB 32,9%, IIA 52,6%, IIBp 14,5%; ung thư biểu mô vẫy 78,9%, ung thư biểu mô tuyến 16,3%, ung thư kích thước ≥ 4 cm 24,5%. Xét nghiệm mô bệnh học phẩm sau mổ cho thấy, xạ trị tiền phẫu làm sạch ung thư tại vùng CTC 83,4%, còn tồn tại ung thư 16,6%; tỷ lệ di căn hạch chậu là 21,1%. Biến chứng sớm sau mổ là 3,6%, không có tử vong. Tỷ lệ tái phát tiểu khung là 11,3%. Tỷ lệ sống thêm 5 năm không bệnh là 74,3%.
Như vậy, UTCTC giai đoạn IB-II có thể được điều trị bằng phẫu thuật, xạ trị hoặc kết hợp xạ trị với phẫu thuật, các phương pháp này cho tỷ lệ sống 5 năm tương đương nhau. Tuy vậy, phương pháp phẫu thuật được chỉ định với trường hợp u ≤ 2 cm. Tỷ lệ này gặp trong nghiên cứu này là 3,9%. Phương pháp xạ trị đơn thuần đòi hỏi nhiều trang thiết bị do phải xạ trị với liều cao và gây nhiều biến chứng. Phương pháp xạ trị kết hợp phẫu thuật qua nghiên cứu này có nhiều phù hợp với tình hình bệnh nhân và trang thiết bị của Việt Nam.

 
LV (nguồn: TC Y học thực hành, số 2/2008)

Các tin khác:

  • 10 mẫu tin
  • 50 mẫu tin
  • 100 mẫu tin
  • Tất cả